Thái cực quyền là một bài tập cổ xưa làm dịu hệ thần kinh và tăng cường cơ thể. LEEP.APP sẽ giúp bạn tự học Thái Cực Quyền hiệu quả tại nhà.

Thái Cực Quyền: Cơ thể – năng lượng – tinh thần

Thái Cực Quyền là hoà hợp của các yếu tố tạo nên con người

Cơ thể – năng lượng – tinh thần chính là ba bảo vật để tạo nên cốt lõi để thực hành Thái Cực Quyền. Tự học Thái Cực Quyền cũng như một cách luyện tập cơ thể và nâng cao năng lượng. Vì vậy, Thái Cực Quyền sẽ giúp bạn cải thiện cả ba yếu tố trên dù bạn tìm đến chúng để nâng cao sức khỏe thể chất hay tinh thần

Cơ thể vật chất là nơi chứa năng lượng và tinh thần của bạn. Đây là cách tiếp cận vật lý đối với sức khỏe, tuổi thọ và hiệu suất. Thông qua tự học Thái Cực Quyền, bạn học cách rèn luyện cơ thể đến những khía cạnh tinh tế nhất của nó. Điều này có thể được thực hiện tốt nhất nếu bạn hiểu các cơ chế hoạt động của cơ thể. Chẳng hạn như sự tinh tế trong cách các bộ phận trong cơ thể hoạt động và kết hợp cùng nhau. Từ đó bạn sẽ thấy được những cải thiện cơ thể đang kinh ngạc.

Khả năng võ thuật huyền thoại của nhiều võ sư Thái Cực Quyền bắt nguồn từ sự phát triển của nhiều loại năng lượng tinh vi. Đây là nơi ẩn chứa nhiều “bí mật” trong Thái Cực Quyền. Một số người luyện tập gian khổ qua nhiều thập kỷ để đạt được và thành thạo điều này.

Bạn có thể tăng cường sinh lực từ việc luyện tập Thái Cực Quyền thường xuyên. Nó có thể tạo ra khả năng chữa bệnh phi thường và khả năng lực trực giác hoặc tâm linh của con người. Đối với những người quá nhạy cảm về mặt năng lượng, Thái Cực Quyền có thể giúp tạo nền tảng và làm phẳng năng lượng của họ. Từ đó giúp họ có thể sử dụng tài năng thiên bẩm của mình thay vì bị choáng ngợp .

Phạm vi ảnh hưởng của Spirit hoạt động trực tiếp với tâm trí và tinh thần vô hình bên trong chúng ta. Nó liên quan đến nghệ thuật và khoa học thiền định, vốn ban đầu tạo ra hai cấp độ đầu tiên của cơ thể và năng lượng.

Tinh thần liên quan đến việc sử dụng trí óc một cách tích cực. Nó cho cơ thể và chi của bạn biết khi nào và làm thế nào để di chuyển. Vận dụng tốt năng lượng tinh thần của bạn là điều bắt buộc để có được gốc rễ và phát huy hết sức mạnh cá nhân. Điều đó giúp có được sự cân bằng cảm xúc và bình an nội tâm, cũng như hiện thực hóa tiềm năng của tâm trí bạn.

Mục tiêu, ý định có thể đưa bạn đi một chặng đường dài với cơ thể và năng lượng. Còn trái tim – tâm trí là cần thiết để kích hoạt hoàn toàn tinh thần, là trung tâm của ý thức bạn. Đó là nơi xuất phát những suy nghĩ và hình ảnh, trước khi đạt đến mức độ ý thức.

Làm việc với cơ thể, năng lượng và tinh thần đòi hỏi các kỹ thuật sơ cấp, trung cấp và nâng cao. Nghệ thuật của Thái Cực Quyền phức tạp như một bản giao hưởng vĩ đại nhất. Chính vì vậy tự học Thái Cực Quyền chính là thách thức rất lớn dành cho sự kiên trì của bạn.

Học 13 tư thế của Thái Cực Quyền

Học 13 tư thế của Thái Cực Quyền cũng cần thiết như học bảng chữ cái đối với học sinh mẫu giáo. Việc tự học Thái Cực Quyền của bạn sẽ bắt nguồn từ gốc rễ vững chắc.  13 tư thế cơ bản này chính là cội nguồn. 13 bước sau đây có thể được coi là Bát quái hoặc “biểu hiện của năng lượng”, và Ngũ hành hoặc “hướng chuyển động”. Nếu bạn là người mới bắt đầu tự học Thái Cực Quyền, bạn có thể cảm thấy đáng sợ khi học danh sách các tư thế này. Nhưng hãy dành thời gian của bạn trong việc xây dựng một bài tập Thái Cực Quyền có chủ đích và chu đáo. Ngay sau đó, các bước này sẽ mang lại cảm giác trực quan cho bạn.

Mỗi phong cách Thái Cực Quyền đều có những động tác riêng. Các phong cách Yang, wu và Thái Cực Quyền có thể có từ 20 đến 108 động tác. Nếu bạn là người mới bắt đầu, tốt nhất nên bắt đầu với 13 tư thế quan trọng này. Bạn sẽ thấy ở đây rằng bốn bước đầu tiên là các khối xây dựng cho các bước tiếp theo.

Tư thế có thể dễ dàng học ngay tại nhà

Động tác này được mô tả như một sự “xua đuổi” đối thủ. Đây là động tác đầu tiên bạn cần trong quá trình tự học Thái Cực Quyền. Peng Ching hoặc tư thế “Jing” tạo ra một rào cản hoặc lá chắn giữa bạn và đối thủ của bạn. Thay vì là một chuyển động, nó là một phản ứng với năng lượng truyền vào. Cơ thể của bạn được đặt cố ý để xua tan lực và đọc ý nghĩa đối thủ của bạn. Khi một võ sư Thái Cực Quyền ở tư thế Peng, họ sẽ bất động ngay cả đối với người mạnh nhất.

Tư thế Thái Cực Quyền thứ hai này có ý định khiến họ bị ném ra khỏi trung tâm và mất thăng bằng. Tư thế Lu sử dụng lực của đối thủ để chống lại chính bản thân họ. Bởi học phải dùng lực để duy trì lại trạng thái cân bằng đã mất.

Chi hay Ji Ching là tư thế thứ ba của Thái Cực Quyền. Bây giờ chúng tôi đã bám trụ vững chắc, tạo ra hàng rào bảo vệ và khiến đối thủ mất thăng bằng. Đây là thời điểm bạn đã sẵn sàng tiến lên phía trước. Tư thế Ji sử dụng bàn tay và cánh tay với lực về phía trước hướng theo phía đối phương. Động tác này được so sánh giống như ném đồng xu hoặc ném bóng vào tường.

Lực của Thái Cực Quyền một tư thế xuất phát từ sâu dưới lòng đất. Cốt lõi của động tác này thông qua sức mạnh của đôi chân và hướng ra đối phương. Năng lượng được đẩy xuống dưới để tạo ra sức mạnh trong tư thế Thái Cực Quyền một tư thế.

Cai là một tư thế Thái Cực Quyền khác có ý định làm mất thăng bằng của đối phương. Tư thế này bằng cách “lăn” lại hoặc kéo hoặc gảy lực từ đối thủ. Điều này sẽ khiến họ mất tập trung. Bạn cần nhanh chóng tóm lấy đối thủ bằng một chuyển động linh hoạt. Như vậy bạn sẽ phá vỡ được thế phòng bị hay tấn công của đối thủ.

Tư thế nằm nhằm giúp bạn thoát khỏi lực của đối thủ. Tư thế nằm nghiêng phân chia lực thành hai hướng khác nhau. Cách này để làm suy yếu và phá vỡ sức mạnh của nó. Đồng thời tư thế này cũng giải phóng bất kỳ lực giữ nào đối với bạn. Tương tự như cách một tảng đá trong dòng suối phá vỡ lực của nước chảy. Tư thế Lie phân chia lực của đối thủ Thái Cực Quyền.

Chou là một tư thế mạnh mẽ hơn. Bài tập Thái Cực Quyền này sử dụng đòn đánh có chủ đích với khuỷu tay để tấn công và để thoát khỏi sự kìm kẹp của đối thủ. Tuy nhiên đây sẽ là động tác khó nếu bạn tự học Thái Cực Quyền một mình.

Kao là một đòn đánh Thái Cực Quyền. Tư thế này sử dụng toàn bộ sức mạnh của Thái Cực Quyền. Bạn sẽ dùng sức để truyền năng lượng qua vai. Sau đó được đẩy bằng lực của toàn bộ cơ thể để đánh bật đối thủ. Lúc này đối thủ sẽ không còn ở trạng thái thăng bằng. Hãy nghĩ về nó như một pha trong bóng đá. Đó là lúc mọi bộ phận của cơ thể đẩy vai về phía trước.

Bước di chuyển đầu tiên trong các tư thế cơ bản của Thái Cực Quyền

Bước Thái Cực Quyền này là bước đầu tiên trong năm yếu tố hoặc hướng di chuyển. Sử dụng chuyển động về phía trước, đây là kỹ thuật bước cốt lõi. Bạn cần sử dụng chân sau làm mỏ neo, di chuyển về phía trước có chủ đích.

Động thái này là rút lui, hoặc lùi lại với đánh giá về những gì xung quanh bạn. Động tác này giúp bạn bảo vệ bản thân và là động tác chắc chắc không được phép bỏ qua khi tự học Thái Cực Quyền.

Ku có nghĩa là “nhìn sang trái”.  Hãy nghĩ về Ku và động tác Thái Cực Quyền sau Pan tạo thành một cặp. Giống như cách để băng qua đường khi còn nhỏ, nhìn bên trái, sau đó nhìn bên phải. Chuyển động của Ku bao gồm việc nhìn sang trái sau khi chuyển động giả sang phải.

Pan có nghĩa là “nhìn đúng”. Chuyển động này bao gồm các bước sang phải sau khi nhìn sang trái hoặc chuyển động sang trái.

Chuyển động Ding đưa năng lượng trở lại trung tâm. Bây giờ bạn đã nhìn sang trái rồi nhìn sang phải, hãy kết nối lại với nguồn sức mạnh trung tâm cốt lõi của bạn.

Dù bạn làm gì, đừng so sánh tốc độ học của bạn với người khác. Thái Cực Quyền là một thách thức đối với tất cả mọi người. Đặc biệt với những ai tự học Thái Cực Quyền dù bạn có thể tiếp thu nó nhanh hơn người khác. Việc kiên trì tập luyện là cam kết của bạn – chứ nó không được đánh giá qua tốc độ.

5 Tips for Tai Chi Beginners https://www.energyarts.com/tai-chi-beginners-0/ Ngày truy cập 10/02/2021

How To Learn Tai Chi for Beginners https://www.goboomerang.com/post/how-to-learn-tai-chi-for-beginners-boomerang Ngày truy cập 10/02/2021

Trần thức Thái cực quyền, Trần gia Thái cực quyền, hay Trần thị Thái cực quyền (陳式、陳家 hoặc 陳氏 太極拳) là tên gọi của trường phái Thái cực quyền của dòng họ Trần, được quyền sư nổi tiếng Trung Hoa, Trần Vương Đình (Chen Wang Ting, 陈王廷), sáng tạo vào giai đoạn Minh mạt Thanh sơ và được các thế hệ con cháu trong dòng họ trau truốt, tinh luyện qua nhiều thế hệ.

Nếu không tính đến huyền thoại về những tổ sư khai sáng Thái cực quyền, Trương Tam Phong và Vương Tông Nhạc, mà giới võ học chưa thể bạch hóa, Thái cực quyền của dòng họ Trần khởi nguồn từ Trần Vương Đình được công nhận là nguồn cội của nhiều dòng phái Thái cực quyền về sau. Trong số đó đáng chú ý là Dương thức Thái cực quyền do Dương Lộ Thiền (1799-1812); và Võ thức Thái cực quyền do Võ Vũ Tương (1812-1880) sáng lập. Hai ông học Trần thức Thái cực quyền từ cháu thứ 14 của dòng họ Trần, trong đó Dương Lộ Thiền thụ truyền từ Trần Trường Hưng (陳長興, 1771-1853) và Võ Vũ Tương sở đắc lý pháp Trần gia Thái cực quyền từ Trần Thanh Bình (陳清苹, 1795-1868).

Cuối thế kỷ 14, một người nông dân tên Trần Bốc (Chen Bu hoặc Chen Pu 陳仆) tới cư ngụ tại một làng nhỏ thuộc huyện Ôn (Wenxian), tỉnh Hà Nam, phía Bắc sông Hoàng Hà (Huanghe). Ông là người tỉnh Sơn Tây (Shanxi), và là tổ của gia đình họ Trần. Làng mà ông tới cư ngụ về sau được gọi là Trần Gia Câu (Chenjia Gou, 陳家沟)[1]. Theo một số người trong gia tộc họ Trần, môn võ (Thái cực quyền) khởi nguyên từ tổ phụ Trần Bốc, tuy nhiên nhiều học giả đã bác bỏ điều này và thừa nhận chính Trần Vương Đình (Chen Wangting, 1600-1680) mới là khởi nguyên của Thái cực quyền dòng họ Trần.

Trần Vương Đình sống vào cuối đời Minh đầu nhà Thanh, là người đất Ôn, tỉnh Hà Nam, đời thứ 9 của dòng họ Trần ở Trần Gia Câu. Trong thời nhà Minh, Trần Vương Đình từng giữ chức vụ tuần phủ, án sát Sơn Đông, Trực Lệ, tỉnh Hà Bắc và là Liêu Đông kiêm chức giám quân, chống nhau với giặc Thanh hơn 4 năm. Quyển Trần thị Gia phổ (陳家氏譜 Chenshi Jia Pu) có ghi: Ông sinh vào cuối triều đại nhà Minh đầu triều đại nhà Thanh, danh tiếng tại tỉnh Sơn Đông, đánh đuổi quân cướp, và là người đầu tiên đem vào gia đình ông môn quyền, đao và thương, ông thường sử dụng cây đại đao[1].

Năm 1644 khi nhà Minh mất, Trần Vương Đình lui về ẩn cư. Từ đây ông tập trung nghiên cứu, tổng hợp các môn võ thuật đương thời[2], lấy 29 thức trong số 32 thức của Quyền kinh của Thích Kế Quang, để cải tạo thành một bài riêng truyền lại cho con cháu. Thái cực quyền được Trần Vương Đình truyền lại cho con cháu trong họ, đời đời luyện tập và không ngừng cải tiến tinh luyện. Cuốn Trần thị gia phổ cũng cho biết Trần Vương Đình tuy đem vào dòng họ 3 môn quyền, đao, thương, nhưng các đời về sau chỉ còn truyền lại quyền mà thôi.

Trước thế kỷ 14, theo Trần thị gia phổ hệ thống võ học của dòng họ Trần bao gồm 7 quyền lộ: Đầu sáo quyền (Toutaoquan) còn được gọi Thập tam thức (Shisan Shi); Nhị sáo quyền (Ertaoquan); Tam sáo quyền (Santaoquan) còn được gọi là Đại tứ sáo trùy (Dasitaochui); Tứ sáo quyền (Sitaoquan) còn được gọi là Hồng quyền (Hongquan) hay Thái tổ hạ nam đường (Tauzu Xia Nantang); Ngũ sáo quyền (Wutao quan); Trường quyền (Chang quan) còn được gọi là Nhất bách linh bát thức (Yibailingba Shi); Pháo trùy (Paochui)[1]. Hệ thống kỹ thuật này còn kiêm các công phu Đoản đả (Duanda); Tán thủ (Sanshou); Kiều thủ (Jishou); Lược thủ (Lueshou); Sử thủ (Shushou), Tam thập lục cổn diệt (Sanshiliu Gunyue); Kim cang thập bát noa pháp (Jingang Shiba Nafa). Ngoài ra là binh khí với Đơn đao (Dandao); Song đao (Shuangdao); Song kiếm (Shuangjian); Song giản (Shangjian), Bát thương (Baqiang); Bát thương đối thích pháp (Baqiang Dui Cifa); Thập tam thương (Shisanqiang); Hoàn hậu Trương Dực Đức tứ thương (Huan Hou Zhang Tesi qiang); Nhị thập tứ thương (Ershisiqiang Lianfa); Bàng la bảng (Panluobang) Xuân thu đao (Chungqiuđao); Bàng la bảng luyện pháp (Panluobang Lianfa); Tuyền phong côn (Xuanfenggun); Đại chiến phác liêm (Dazhan polian)[1]. Trong hệ thống quyền pháp Trần gia nổi lên 2 quyền lộ chính: Trường Quyền vốn xuất xứ từ quyền pháp của Thích Kế Quang dài và phức tạp, và Thập Tam Thức vốn lấy từ Thái cực quyền Phổ của Vương Tông Nhạc. Tuy vậy, Trần gia Thái cực quyền chủ yếu vẫn là Trường Quyền, còn Thập Tam Thức do con cháu họ Trần học lại từ Vương Tông Nhạc về sau[cần dẫn nguồn].

Cho đến thời cận đại, đời thứ 14 của dòng họ Trần vào thế kỷ 19, Thái cực quyền của dòng họ Trần phát sinh thành hai nhánh. Một chi nhánh xuất từ Trần Sở Nhạc (Chen Suoyue) truyền bởi Trần Hữu Bản (Chen Youben 陈有本) và Trần Hữu Hằng (Chen Suoyue). Một chi nhánh khác xuất phát từ Trần Trường Hưng (Chen Changxing hoặc Ch'en Chang-hsing 陳長興, 1771-1853). Trong khi Trần Trường Hưng vẫn đi theo hệ thống gia truyền gọi là Lão giá ("Thái cực quyền Trần gia Lão giá", hay "Thái cực quyền Trần gia Đại giá"), Trần Hữu Bản đã cải tiến Thái cực quyền do tổ phụ để lại thành hệ thống Tân giá (xinjia 新架) (Thái cực quyền Trần gia Tân giá). Tuy vậy, hệ thống Tân giá Thái cực quyền vẫn dựa chủ yếu trên nền Lão giá. Theo truyền thuyết, ba quyền sư này đã tóm gọn lại quyền giá, từ 7 bài quyền xưa chỉ còn lại 2 bài: Đệ nhất lộ (Diyliu) và Pháo trùy quyền (Paochui). Về sau, Trần Thanh Bình (Chen Qingping hoặc Ch'en Ch'ing-p'ing 陳清苹, 1795-1868) lại sáng tạo thêm các động tác mới và cải tiến quyền thức gọn gàng hơn, hình thành nên Tiểu giá (xiao jia 小架) Thái cực quyền, là bộ thứ 2 trong Tân giá quyền thức của Trần gia[3]. Kỹ pháp do Trần Thanh Bình nhuận sắc và truyền dạy cũng được gọi là Bảo giá hay Triệu Bảo gia Thái cực quyền.

Vào thế kỷ 20, Chi nhánh Trần thức Đại giá khởi nguồn từ Trần Trường Hưng lại chia ra hai chi phái Bảo giá của Trần Chiếu Phi (Chen Zhaopi, 1893-1972) và Tân giá của Trần Phát Khoa (Chen Fake, 1887-1957)[1].

Trần Trường Hưng (Trần gia Lão giá) có dạy Thái cực quyền ra ngoài nội tộc. Hai học trò được biết nhất là Dương Lộ Thiền (Yang Luchan) và Lý Bá Khôi (Li Bokui) và sau này, Dương Lộ Thiền là người thành lập chi phái Dương thức Thái cực quyền. Từ Dương thức Thái cực quyền, nhờ Ngô Giám Tuyền (1870–1942), cũng đã khai sinh dòng Ngô thức Thái cực quyền.

Từ các đệ tử của Trần Thanh Bình (Trần gia Tiểu giá), đã sinh thành các lưu phái Võ thức Thái cực quyền do Võ Vũ Tương (1812–1880) sáng lập; Hòa gia Thái cực quyền (Hijia Taiji Quan) lập bởi Hòa Triệu Nguyên (HeZhaoyuan, 1810-1890), Tam hợp nhất Thái cực quyền (Sanheyi Taiji Quan) lập bởi Trương Kính Chi (Zhang Jingshi)[1]. Đệ tử của Võ thức Thái cực quyền, Tôn Lộc Đường về sau khai sinh Tôn thức Thái cực quyền.

Đặc điểm của Trần thức Thái cực quyền có thể tóm lược trong 8 yếu lĩnh được Trần thị quyền phổ quy định:

Bài quyền thứ nhất, hay "Đệ nhất lộ", có đặc điểm là động tác rõ ràng, đơn giản, nhu nhiều cương ít, lấy tứ chính kình bằng, lý, tê, án (nâng, kéo, đẩy, đè) vận dụng làm chính và tứ ngung thủ thái, liệt, chẩu, kháo (chộp, cắt, chỏ, dựa) làm phụ. Phương pháp dụng lực lấy "triền ty kình" (kình lực xoắn ốc như quấn tơ) làm chính và phát kình làm phụ[4]. Động tác của bài khoan thai, mềm mại, vững chắc và chậm rãi, thích hợp cho dưỡng sinh.

Bài quyền thứ hai, còn gọi là "Pháo chùy quyền", có động tác phức tạp hơn, đòi hỏi sự nhanh nhẹn, gọn gàng, cương nhiều nhu ít, vận kình với thái, liệt, chẩu, kháo (chộp, cắt, chỏ, dựa) làm chính và bằng, lý, tê, án (nâng, kéo, đẩy, đè) làm phụ[4]. Động tác của bài cứng rắn, mau lẹ, có nhiều động tác nhảy nhót né tránh, thích hợp trong thực chiến.

Dưới đây là tên chiêu thức trong 2 bài của Trần gia Thái cực quyền, do quyền sư Trần Phát Khoa (Chén Fākē hoặc Ch'en Fa-k'e 陳發科, 陈发科 1887-1957) và con trai là Trần Chiếu Khuê (Chen Zhaokui 陳照奎, 1928-1981) biểu diễn, phân thế:

Là những bài tập nhằm ứng dụng Thái cực quyền trong chiến đấu, kỹ thuật thôi thủ[7] của Trần thức Thái cực quyền thực hiện bộ pháp một tiến một lùi, cũng có thể tiến liên tục hoặc lùi liên tục. Thủ pháp cơ bản là "bằng", "lý", "tê", "án" gọi là tứ chính thủ và thủ pháp nâng cao là "thái", "liệt", "chẩu", "kháo" gọi là tứ ngung thủ, đại lý hay đại kháo[8].

Sau khi thành thục cả tứ chính thủ và tứ ngung thủ, tiến tới bước tán thủ hay còn gọi là loạn thác hoa, tức phương thức thôi thủ không câu nệ bước chân[9].